Lượt xem: 6
Truyện Kiều là một tác phẩm đặc biệt, có
thể nói không ngoa là có một không hai
trên thế gian này. Bởi, đây là tác phẩm
không chỉ hay về nghệ thuật thơ, hạng
siêu "Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm
thêu", mà đặc biệt còn ở điểm, Kiều đã
cho dân gian những hình thức sinh hoạt
văn hoá - tâm linh như lẩy Kiều, vịnh
Kiều, đố Kiều, và bói Kiều…
Ngày 21/7/1954, là ngày Hiệp định Gonevơ, về Việt Nam và Đông Duơng được ký kết và có hiệu lực. Và sự kiện lịch sử này đã được phát hiện là có linh ứng với một câu thơ trong Truyện Kiều, câu thơ số 1954.
Truyện Kiều có 3254 câu thơ. Chữ số năm 1954 cho liên hệ tới số chữ và ý nghĩa như thế nào, tính theo thứ tự của câu thơ số 1954 trong truyện Kiều?
Xin thưa đó là câu: Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai, thật ứng với việc đất nước đã không "đồng" nhất được, phải chia làm hai - miền Nam Bắc, gianh giới phân chia là vĩ tuyến 17.
Đây là cách tính theo lối duy tâm, bói chữ - bói Kiều.
Truyện Kiều là một tác phẩm đặc biệt, có thể nói không ngoa là có một không hai trên thế gian này. Bởi, đây là tác phẩm không chỉ hay về nghệ thuật thơ, hạng siêu "Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu", mà đặc biệt còn ở điểm, Kiều đã cho dân gian những hình thức sinh hoạt văn hoá - tâm linh như lẩy Kiều, vịnh Kiều, đố Kiều, và bói Kiều…
Sự linh ứng, bói Kiều không chỉ trên phương diện xem nghĩa của câu mà đoán việc, mà còn ứng cả về sự kiện liên quan tới số học.
Thật là một tác phẩm vô cùng đặc dị, đặc biệt.
Sau đây tôi xin trích dẫn cả đoạn Kiều, trong trường đoạn tả về cảnh rất éo le, đau đớn của nàng Kiều phải gẩy đàn , hầu rượu chàng Thúc Sinh - người mà nàng đã cả tin, ngỡ rằng mình sẽ lấy làm chồng, với người vợ chàng là Hoạn Thư. Một đoạn tình đầy nước mắt:
"Đã cam tệ bạc với tình,
"Chúa xuân để tội một mình cho hoa.
"Thấp cơ thua trí đàn bà,
"Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời.
"Vì ta cho lụy đến người,
"Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh."
"Quản chi lên thác xuống ghềnh,
"Cũng toan sống thác với tình cho xong.
"Tông đường chút chửa cam lòng,
"Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai.
"Thẹn mình đá nát vàng phai,
"Trăm thân dễ chuộc một lời được sao ?"
"Chúa xuân để tội một mình cho hoa.
"Thấp cơ thua trí đàn bà,
"Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời.
"Vì ta cho lụy đến người,
"Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh."
"Quản chi lên thác xuống ghềnh,
"Cũng toan sống thác với tình cho xong.
"Tông đường chút chửa cam lòng,
"Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai.
"Thẹn mình đá nát vàng phai,
"Trăm thân dễ chuộc một lời được sao ?"
*
Về việc bói Kiều còn nhiều câu thương ứng về chữ số và nghĩa lý với các ngày tháng/ sự kiện của ViệtNam ta.
Xin dẫn thêm đôi ba ví dụ:
Ngày kỷ niệm Quốc tế Phụ nữ 8/3 : với câu thơ số 83 :
Đau đớn thay phận đàn bà
Đau đớn thay phận đàn bà
Câu số 1972:
Liệu mà cao chạy xa bay,
Ái ân ta có ngần này mà thôi.
Liệu mà cao chạy xa bay,
Ái ân ta có ngần này mà thôi.
Nội dung câu này rất trúng khi cuộc chiến ở Miền Nam giai đoạn 1972, quân giải phóng đang thắng lớn, chính quyền Sài Gòn muốn cầu xin Mỹ tiếp tục ở lại miền Nam, nhưng do tổn thất nặng nề trên chiến trường, cùng sức ép của dư luận và nội tình nước Mỹ đã buộc phía Mỹ phải quyết định rút quân khỏi Miền Nam ngoài sự mong đợi của chính quyền Sài Gòn. Mà với sự kiện này, TT Nguyễn Văn Thiệu đã kêu lên đầy thất vọng trước báo chí trong, ngoài nước: "người Mỹ đem con bỏ chợ”. v.v..
Hay như trường hợp bói Kiều của TT Ngô Đình Diệm. Khi cây cột cờ trước Dinh Độc Lập đột nhiên bị gãy đổ, ông cho gọi một thầy bói thân tín vào dinh xin quẻ Kiều, ông bói nhằm câu: “Tay tiên gió táp mưa sa / Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu” rồi thưa rằng có khả năng Dinh Độc Lập sẽ bị ném bom, vì Kiều đã báo là “khoảng trên”, có nghĩa là tấn công từ phía trên không trung, nhưng cũng chỉ thả 3,4 quả bom rồi thôi chứ không nhiều, sau đó thực tế diễn ra hoàn toàn đúng như vậy. Lần đó dinh Độc Lập bị ném bom, anh em ông Diệm Nhu thoát nạn.
Lại một lần khác, khoảng cuối tháng 10 năm 1963, thấy tâm trạng bất an, linh tính như mách bảo điều gì, ông Diệm lại nhờ thầy bói Kiều.
Lần này bốc được mấy câu:
Một đoàn đổ đến trước sau,
Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời.
Tú bà tốc thẳng đến nơi,
Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà.
Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra
Dang tay vùi liễu dập hoa tơi bời…
Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời.
Tú bà tốc thẳng đến nơi,
Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà.
Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra
Dang tay vùi liễu dập hoa tơi bời…
Thấy vậy thầy bói không tránh khỏi run sợ thưa: Bẩm cụ, phen này thì cực kỳ nguy khốn. Sợ lại có đảo chánh. Lần này thì khó lòng thoát nổi, bọn chúng sẽ bắt xử Cụ tại trận mà không cần toà án phán xét. Ông Diệm hỏi căn cứ sao mà thầy nói vậy? Thưa: Kiều đã nói rõ, “Vuốt đâu xuống đất cánh đâu lên trời”, nghĩa là Cụ có trốn xuống hầm ngầm dưới đất hoặc chạy lên trời bằng máy bay lên thẳng cũng không thể thoát, người đến bắt cụ là một sĩ quan cấp tá.
Điểm ứng khiến thày bói suy diễn về vi sỹ quan, hàm tá là do chữ “Tú bà” lái lại tức là “Tá bù”, và nghe đâu vị thày bói này đã khuyên Ngô Tổng thống hết sức đề phòng. Qủa trăm đường không chạy khỏi số. Đến tháng 11 năm 1963 thì sự việc diễn ra đúng y như vậy. Anh em TT đã chết do cuộc đảo chính.
Ông Nguyến Thái Học bói Kiều: Ông Nguyễn Thái Học là lãnh tụ Việt Nam Quốc dân đảng, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Thái học cùng cô Giang và các đồng chí của mình rút về miền xuôi tìm kế sách tiếp tục cuộc chiến đấu. Một đêm xuân đầu năm 1930 trời lạnh, trong nhà một cơ sở cách mạng ở tỉnh Hải Dương. Xót xa vì việc nước chưa thành, chí nam nhi chưa toại, nghĩ tới những ngày sắp tới với bao khó khăn chồng chất, trằn trọc không sao ngủ được, ông cùng các đồng chí của mình thức dậy pha trà ngồi uống và bói quẻ Kiều đầu năm tiêu khiển.
Mọi người mời ông bói trước. Nguyễn Thái Học nhận lời ngồi xếp bằng, vẻ mặt trịnh trọng, hai tay ấp quyển Kiều vào ngực khấn:
“Hải Dương tỉnh, Nam Sách huyện, Hùng Thắng xã; Canh Ngọ niên, Chính nguyệt sơ nhất nhật, tôi là Nguyến Thái Học quê làng Thổ Tang, phủ Vĩnh Tường… Kính lạy chư vị trong truyện xin cho tôi bói một quẻ Kiều, lấy 4 câu về trang bên tả, có lành ứng lành, có dữ ứng dữ…”
“Hải Dương tỉnh, Nam Sách huyện, Hùng Thắng xã; Canh Ngọ niên, Chính nguyệt sơ nhất nhật, tôi là Nguyến Thái Học quê làng Thổ Tang, phủ Vĩnh Tường… Kính lạy chư vị trong truyện xin cho tôi bói một quẻ Kiều, lấy 4 câu về trang bên tả, có lành ứng lành, có dữ ứng dữ…”
Khấn xong, ông mở quyển Kiều và đọc to 4 câu bên trang tả:
“Thân ta ta phải lo âu
Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này
Liệu mà cao chạy xa bay
Ái ân ta có ngần này mà thôi.”
Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này
Liệu mà cao chạy xa bay
Ái ân ta có ngần này mà thôi.”
Nghe vậy, tất cả đều buồn. Biết rằng chặng đường sắp tới sẽ cực kỳ gian khổ hiểm nguy. Mọi người chia tay và mỗi người đi về một phía. Nhưng không ngờ mấy ngày sau gần như tất cả đều bị sa vào tay giặc. Không lâu sau đó, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí của ông bị đưa lên đoạn đầu đài ở Yên Bái. Ông hi sinh nhưng đã để lại tấm gương trung liệt sáng ngời vì nước quên thân, được các thế hệ người Việt tôn vinh, đời đời kính trọng.
Tướng Nguyễn An bói Kiều: Tướng Nguyễn An, nguyên Phó Tư lệnh Đoàn 559, tác giả cuốn sách: “Bói Kiều trên đỉnh Trường Sơn”. Trong cuốn sách đó ông kể nhiều câu chuỵên bói Kiều rất thú vị. Xin trích nêu vài trường hợp: Có một số lính trẻ, có văn hoá lại lập nhiều thành tích, Bộ đang dự định gọi về miền Bắc học, sau đó chuyển đi đào tạo sỹ quan ở nước ngoài, số này đã cử người đến xin thủ trưởng bói cho một quẻ để biết lành dữ. Được câu:
“Chế khoa gặp hội trường văn
Vương Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày”
Vương Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày”
Câu Kiều đẹp quá, anh lính trẻ liền nhẩy cẫng lên chạy về báo cho các bạn là tất cả sẽ được toại nguyện…
Đỗ Trọng Khơi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét